Hiển thị các bài đăng có nhãn BÁN BỒ CÂU CẦN THƠ.. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BÁN BỒ CÂU CẦN THƠ.. Hiển thị tất cả bài đăng

PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CHO BỒ CÂU.


Cách phòng và trị bệnh thương hàn ở chim bồ câu


Thứ nhất là các biện pháp phòng bệnh:
-  Để tránh tổn thương niêm mạc tiêu hoá, cần cho chim ăn thức ăn mềm dễ tiêu như thức hỗn hợp dạng bột trong thời gian điều trị; thực hiện cách ly chim ốm và chim khoẻ; làm vệ sinh, tiêu độc chuồng trại.
- Dùng một trong các loại kháng sinh sau:
+ Esb3: Pha 2g với 1 lít nước, cho chim uống liên tục 3 - 4 ngày. Khi trong đàn có một số chim bị bệnh thì dùng thuốc cho uống phòng nhiễm cho cả đàn.
+ Bisepton: Dùng liều 100mg/ kg thể trọng của chim, tán nhỏ thuốc pha nước đổ cho chim uống hoặc trộn với thức ăn cho chim ăn, thuốc dùng liên tục 3 - 4 ngày.
+ Dùng thuốc Oxytetracyclin với liều 100mg/kg thể trọng của chim, thuốc có thể pha nước cho uống, trộn với thức ăn cho ăn hoặc tiêm bắp thịt, thuốc dùng liên tục 3 - 4 ngày.
+ Dùng phối hợp hai loại thuốc Tetracyclinliều 50 mg/kg thể trọng) và Bisepton liều 50 mg/kg thể trọng). Thuốc có thể pha nước cho uống, trộn với thức ăn cho ăn, thuốc dùng liên tục 3 - 4 ngày.
Dùng thuốc trợ sức và trợ lực: Kết hợp với thuốc điều trị cần bổ sung Premix khoáng và Premix vitamin cùng với chất điện giải vào nước uống hoặc thức ăn để tăng sức đề kháng cho chim.
Thứ hai là các biện pháp điều trị:
- Khi phát hiện chim bệnhcần cách ly điều trị kịp thời. Đồng thời cũng dùng 1 trong các loại thuốc trên điều trị cho những chim đã nhốt chung chuồng với chim ốm, vì những chim này có thể đã bị nhiễm mầm bệnh.
- Thực hiện vệ sinh, tẩy uế chuồng trại khi có dịch xảy ra, dùng 1 trong các thuốc sát trùng sau phun hoặc vẩy vào chuồng để diệt mầm bệnh: Axit Phênic 5%; Vi- kon 0,1%; nước vôi 10%; Crêsyl 3%.
- Nuôi dưỡng, chăm sóc tốt đàn chim với khẩu phần ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, các loại khoáng và các vitamin A,D,E,B1, C để nâng cao sức đề kháng với bệnh.

      Bệnh Newcastle là bệnh thường gặp và rất nguy hiểm đối với chim bồ câu- Ảnh minh họa
Để phòng trị bệnh này, bà con cần làm như sau:
Phòng bệnh:
- Với chim bồ câu non từ 1 – 10 ngày tuổi: trong thời gian này cần nhỏ thuốc phòng bệnh Newcastle loại LASOTA hệ 1 : nhỏ 1 giọt vào mũi và 2 giọt vào miệng chim non. Đồng thời cho chim bồ câu bố mẹ uống thêm các Vitamin ( điện giải , đường Gluco ) .
- Với chim bồ câu  từ 20 – 30 ngày tuổi: trong thời gian này cho uống kháng thể để phòng bệnh Newastle, Gumboro, IB, và các bệnh đường tiêu hóa .
- Với chim bồ câu từ 40 – 60 ngày tuổi: nhỏ LASOTA hệ 2 để phòng Newcastle( cách nhỏ cũng giống như khi phòng cho chim từ 1-10 ngày tuổi). Thức ăn và nước uống cho chim bồ câu phải sạch sẽ.
Trong giai đoạn này, ngoài bệnh Newcastle, chim non có thể nhiễm các bệnh như : thương hàn , E.coli, tụ huyết trùng và bệnh đậu gà. Vì vậy, anh và bà con cần chú ý theo dõi thường xuyên chim non để phát hiện bệnh và phòng trị kịp thời.     
- Với chim bố mẹ: tiêm vắc xin phòng bệnh Newcastle từ 1-2 lần/ năm.
- Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ. Anh nên định kỳ 1 tháng dọn dẹp làm vệ sinh chuồng 2 lần, sửa chữa và làm mới chỗ hư hỏng, cạo sạch phân, thay ổ đẻ, phun thuốc sát trùng chuồng.
- Hàng ngày nên vệ sinh máng ăn, máng uống để tránh cho chim bồ câu uống phải nước bẩn, nước đã lên men do cặn thức ăn đọng lại trong máng.
- Ngoài ra, anh cần chu ý: lồng vận chuyển chim bồ câu cũng là nguồn lây nhiễm bệnh, vì ở chuồng có chim bồ câu bị bệnh và chết thì dễ dàng lây nhiễm bệnh sang chuồng khác. Vì thế lồng khi dùng để vận chuyển chim mới cần phải được lau rửa sát trùng cẩn thận.
- Hạn chế cho chim lạ vào chuồng
- Tránh để phân chim vương vãi ra mọi nơi. 
- Phòng tránh chuột, mèo, chó… tấn công chim.
Điều trị bệnh:
- Dùng kháng thể Gum với liều 1ml/con. Có thể tiêm lặp lại khi chim khỏi bệnh sau 5 ngày.
- Dùng vacxin phòng bệnh Newcastle nhỏ cho cả đàn chim, liều lượng 1-2 giọt/con.
- Kết hợp với cho chim uống các thuốc trợ sức trợ lực và nâng cao sức để kháng như Hanmuvit ( Han-mu-vít); B.complex; thuốc điện giải
- Dùng kháng sinh để chống bội nhiễm như: Genta – Costrim (Gen –ta-Cốt-trim); Tyb50,…Liều lượng theo chỉ dẫn của nhà sản xuất.

Bệnh thương hàn ở bồ câu


Bệnh thương hàn ở bồ câu đã được phát hiện và nghiên cứu ở Hoa Kỳ và một số nước
Châu Âu. Đây là một bệnh chung của bồ câu, gà, ngan, ngỗng, vịt với hội chứng
viêm ruột, ỉa chảy.


1. Nguyên nhân
Bệnh gây ra do vi khuẩn Salmonella gallinacerum và S. emteritidis thuộc họ Enterbateriacae. Vi khuẩn là loại trực khuẩn nhỏ, ngắn có kích thước: 1-2x1,5 micromet, thường chụm 2 vi khuẩn với nhau, thuộc gram âm(-), không sinh nha bào và nang k(Copsule). Vi khuẩn có thể nuôi cấy phát triển tốt ở  môi trường thạch nước thịt và peptone, độ pH=7,2, nhiệt độ thích hợp là 370c. Vi khuẩn sẽ bị diệt ở nhiệt độ 600c trong vòng 10 phút, dưới ánh sáng mặt trời trong vòng 24h. Nhưng có thể tồn tại 20 ngà khi đặt trong bóng tối. Các hóa chất thông thường diệt được vi khuẩn như: axit phenol -1/1000; chloruamercur -1/20.000; thuốc tím 1/1000 trong 3-5 phút.
2. Bệnh lý lâm sàng
Trong tự nhiên có một số chủng Salmonella gallinacerum có độc cực mạnh, gây bệnh cho bồ câu nhà, bồ câu rừng, gà, vịt và nhiều loài chim trời khác. Bồ câu nhiễm vi khuẩn qua đường tiêu hóa. Khi ăn uống phải thức ăn hoặc nước uống có vi khuẩn, bồ câu sẽ bị nhiễm bệnh. Vi khuẩn vào niêm mạc ruột, hạch lâm ba ruột, phát triển ở đó và tiết ra độc tố. Độc tố vào nước, tác động đến hệ thần kinh trung ương, gây ra biến đổi bệnh lý như thân nhiệt tăng cao, run rẩy. Vi khuẩn phát triển trong hệ thống tiêu hóa gây ra các tổn thương niêm mạc ruột, cơ ruột, làm cho ruột bị viêm và xuất huyết. Trong trường hợp bệnh nặng, vi khuẩn xâm nhập vào máu gây ra hiện tượng nhiễm trùng máu.
Bồ câu có thời gian ủ bệnh từ 1-2 ngày, thể hiện: ít hoạt động, kém ăn, uống nước nhiều. Sau đó, thân nhiệt tăng, chim đứng ủ rũ một chỗ, thở gấp, đặc biệt là ỉa chảy, phân màu xanh hoặc xám vàng, giai đoạn cuối có lẫn máu. Chim sẽ chết sau 3-5 ngày.
3. Đặc điểm dịch tễ
Hầu hết các loài gia cầm như bồ câu, gà, vịt, ngan, ngỗng, chim cút… cũng như nhiều loại chim trời đều nhiễn S. gallinacerum và bị bệnh thương hàn. Các nhà khoa học đã làm các thực nghiệm tiêm truyền S. gallinacerum cho 382 loài chim thuộc 20 nhóm chim, kết quả có 367 loài bị phát bệnh, chiếm tỷ lệ 96%. Chim ở các lứa tuổi đều có thể bị nhiễm vi khuẩn. Nhưng chim non dưới 1 năm tuổi thường thấy phát bệnh nặng và chết với tỷ lệ cao (50-60%).
Bệnh lây chủ yếu qua đường tiêu hóa. Nhưng cũng lây qua trứng khi bộ câu mẹ bị nhiễm bệnh. Ở các khu vực nuôi gà cùng với bồ câu trong cùng chuồng trại và môi trường sinh thái, bồ câu thường bị lây nhiễm mầm bệnh từ gà bệnh.
Bệnh có thể lây nhiễm quanh năm, nhưng thường thấy vào các tháng có thời tiết ấm áp và ẩm ướt trong mùa xuân, đầu mùa hè và cuối mùa thu.
4. Chẩn đoán
Chẩn đoán lâm sàng: Căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng như chim ốm có tính chất lây lan với biểu hiện như ỉa lỏng phân xám vàng hoặc xám xanh, có lẫn máu. Khi mổ khám chim ốn thấy: tụ huyết, xuất huyết và tổn thương các niêm mạc đường tiêu hóa.
Chẩn đoán vi sinh vật: thu thập bệnh phẩm, nuôi cấy để phân lập vi khuẩn S.gallinacerum.
5. Điều trị
Thuốc điều trị: Dùng phối hợp hai loại thuốc: Tetracyclin liều 50mg/kg thể trọng và Bisepton liều 50mg/kg thể trọng. Thuốc có thể pha thành dung dịch đổ cho chim uống trực tiếp, liên tục trong 3-4 ngày. Thuốc trợ sức: cho uống thêm vitamin B1, C, K.
Hộ lý: Để tránh tổn thương niêm mạc tiêu hóa, cần cho chim ăn thức ăn mềm dễ tiêu như thức ăn hỗn hợp dạng bột hoặc trong thời gian điều trị thực hiện cách ly chim ốm và chim khỏe; làm vệ sinh, tiêu độc chuồng trại.
6. Phòng bệnh
Khi có bệnh xảy ra cần cách ly chim ốm để điều trị; chim ốm chết phải chôn có đổ vôi bột hoặc nước vôi 10%, không được mổ chim ốm gần nguồn nước và khu vực nuôi chim. Toàn bộ số chim trong chuồng có chim ốm cho uống dung dịch chloramphenicol 2/1000 hoặc sulfamethazone 5/1000 trong 3 ngày liền. Khi chưa có dịch: Thực hiện vệ sinh chuồng trại và vệ sinh môi trường; nuôi dưỡng chim với khẩu phần ăn thích hợp và đảm bảo thức ăn, nước nuống sạch.



-Một số bệnh thường gặp:
+Đẹn: Naphacogyl or dorogyl Thuốc trị dau răng (thuốc tây)
+Đau mắt: dùng bông gòn lau mắt qua 1 or 2 lần rồi nhỏ thuốc chữa đau mắt của BIO(mua thú y)
+Ho khò khè: Chai EFL (thú y)
+Ăn lông bồ câu con: Bổ sung Vitamin Bio +khoán bình đông
+ Phân xanh + phân trắng: Vime
+Đậu,đẹn: Povidine trị ghẻ người (thuốc tây)
+Bệnh cầu trùng: BIO Enrofloxacin 10%
+Bệnh thời tiết : Tetrazym
+ Rù-biếng ăn.Thuốc Bổ Bio B.Complex – Tiêm dưới da - 1ML/10kg thể trọng
+ Bio TyLosin-PC (tụ huyết trùng,viêm thương hàn,viêm ruột tiêu chảy,viêm tử cung,nhiễm trùng vết thương,viêm xoang mũi) 1ml/5kg thể trọng-tiêm dưới da

Một số kinh nghiệm nuôi chim bồ câu PHÁP.


                                                  Kinh nghiệm nuôi chim bồ câu hiệu quả


Để nuôi chim bồ câu đạt hiệu quả cao, ngoài nắm vững kỹ thuật nuôi, người nuôi cũng nên nằm lòng một số bí quyết. Trang trại chúng tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm nuôi chim bồ câu hiệu quả:

- Cho chim tập làm quen với kẻ thù: Chim bồ câu sợ nhất là mèo và rắn, nên tập cho chim làm quen với chúng bằng cách: Cứ mỗi lần cho chim ăn anh kèm theo con mèo bên cạnh. Lần đầu cho chim thấy mèo, lần sau bắt 2 con lên tay, lần nữa thả mèo cùng ăn với chim. Dần dần 2 con gần gũi nhau, mèo không vồ chim, chim không sợ mèo. Bằng cách đó anh dùng con rắn nhựa làm quen với chim, cho rắn vào chuồng chim. Cứ như thế đàn chim của anh coi mèo, rắn là bạn bè vì thế mà không bỏ đi nơi khác.

- Giữ chim ở lại chuồng tránh tình trạng chim bay bỏ chủ mà đi chủ khác: Để giữ chúng cần tập cho chim quen hơi chủ bằng cách nuôi chim càng non càng tốt.

- Thường xuyên thăm nom các ổ chim mới nở tạo cho chim không bị sốc về sau, chim trở nên “dạn” gần gũi với chủ hơn.

- Cho ăn đúng giờ tạo thói quen, dù có đi ăn xa khi đến giờ ăn chim rủ nhau về nhà để ăn thức ăn quen thuộc của chủ.

- Về khả năng sinh sản, muốn chim đẻ đều, tỷ lệ nở cao, con khỏe, nuôi chóng lớn thì cần cho chim ăn đầy đủ, nhất là cám tổng hợp. Nếu nuôi tốt 1 con bồ câu mái sau 4 -5 tháng tuổi bắt đầu đẻ lứa đầu, mỗi lứa đẻ 2 trứng. Sau khi ấp 16–18 ngày sẽ nở. Chim con sẽ được giao cho chim trống nuôi dưỡng. Chim mái nghỉ dưỡng sau 7- 10 ngày thì đẻ lứa tiếp theo. Cứ như thế 1 cặp bồ câu bố mẹ sau 1 năm cho ra đời 17 cặp con cháu.

Theo đánh giá của nhiều hộ nuôi chim bồ câu thì tìm đầu ra cho sản phẩm này không khó. Nhu cầu của người dân, các nhà hàng, khách sạn tiêu thụ thịt chim bồ câu khá cao. Một cặp giống bán ra trung bình khoảng 700-800 ngàn đồng, còn bồ câu ra ràng 130 ngàn đồng/cặp.

Hy vọng bài viết có thể đem lại cho người đọc những cái nhìn mới mẻ và hướng làm giàu khả quan từ hình thức kinh doanh này.
 

Bồ câu non khó phân biệt trống mái. Sự phân biệt chỉ thuận lợi khi chim đã lớn, sinh dục đã chín muồi. Chim trống thường có thể trọng lớn hơn chim mái, mình đầy, cơ bắp lớn hơn, đầu to vào chân to hơn. Con mái có khoảng cách giữa 2 xương chậu rộng, đầu nhỏ và nhanh.
Trong khi tắm, chim trống thường đùa giỡn, hai cánh khẽ đập nước và gù với chim mái.
Chim câu biểu lộ tình yêu và lòng chung thủy bằng chế độ 1 
vợ 1 chồng. Chúng thường luôn ở bên nhau cả khi bay đi kiếm mồi, khi tắm hoặc nghỉ ngơi. Chỉ trong thời gian ấp trứng chúng mới chịu tạm lẻ đôi. Khi đó chim mái ấp trứng, chim trống bay đi kiếm mồi
và ngược lại. Nếu vì lý do nào đó một con bị lạc hoặc chết, con còn lại sẽ bỏ tổ bay đi nơi khác, có thể bay đi tìm bạn đời.



Kết quả chăn nuôi phụ thuộc vào việc chuẩn bị bồ câu trước mùa sinh sản và sự chăm sóc chúng trong thời kỳ đẻ trứng.

Mỗi lứa chim bồ câu mái đẻ 2 trứng, rất hiếm trường hợp chim đẻ 1 trứng. Trứng chim hình bầu dục, vỏ sáng màu trắng. Trọng lượng trứng trung bình 16-18g, tùy thuộc ở các giống chim khác nhau trứng có thể to hơn hoặc nhỏ hơn. Mùa giao phối của chim bắt đầu từ giữa tháng 2 đến cuối tháng 10 dương lịch. Trong thời gian đó, bồ câu có thể đẻ được 5-6 lứa trứng. Khoảng cách giữa lứa thứ 3 và 4 là 50-55 ngày. Người nuôi chim phải theo dõi quá trình chim đẻ trong từng ổ (trong các ngăn đặt ổ rơm), đánh dấu vào trứng và khi thấy trứng đẻ không bình thường thì thay đổi hoặc tăng cường thức ăn protein và chất khoáng.

Bản năng ấp của chim xuất hiện đầy đủ sau khi đẻ 2 trứng nhưng cũng có trường hợp mới đẻ 1 trứng chim đã nằm ấp, trường hợp này chim non nở không cùng thời gian. Ở cả bồ câu hoang dại và bồ câu nhà, con trống và con mái đều tham gia ấp trứng. Con này ấp thì con kia đi kiếm mồi, đảm bảo giữ ổ ấp ở nhiệt độ cần thiết cho trứng nở. Nhiệt độ ấp trứng ở bồ câu khá cao, khoảng 400C trên bề mặt và 370C ở dưới ổ.

Chim trống thay ấp với chim mái 3-4 giờ / 1 ngày đêm. Thường ở lứa đầu chim ấp kém. Chim đẻ từ lứa thứ 2 trở đi việc ấp sẽ tốt hơn và tỷ lệ trứng cũng cao hơn. Phôi bồ câu phát triển trong 17 ngày đêm thì nở.
  

Chọn bồ câu làm giống

   Để chăn nuôi chim bồ câu cho hiệu quả kinh tế cao, khâu chọn giống đóng vai trò quan trọng. Chim bồ câu được chọn làm giống phải đảm bảo các yêu cầu: khỏe mạnh, lông mượt, không có bệnh tật, không có dị tật, lanh lợi.


Do bồ câu là loài đơn phối, khi nuôi chim nên mua loại chim từ 4-5 tháng tuổi. Có thể phân biệt trống mái dựa trên ngoại hình: con trống to hơn, đầu thô, có phản xạ gù mái, khoảng cách giữa 2 xương chậu hẹp; con mái thường có khối lượng nhỏ hớn, đầu nhỏ và thanh, khoảng cách giữa 2 xương chậu rộng. Tuy nghiên lúc bé rất khó phân biệt, ngay cả khi trưởng thành độ chính xác cũng khó đạt 100% nên khi mua cần tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn, các chuyên gia có kinh nghiệm.

Các dòng bồ câu Pháp nhập vào Việt Nam.


Chim bồ câu là loại gia cầm được thuần hóa rất sớm. Ở nước ta chim bồ câu được nuôi trừ lâu đời mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống như ở Đông Anh (Hà Nội), Tiên Sơn (Bắc Ninh),… Tuy nhiên nuôi chim bồ câu để lấy thịt vẫn là chính. Thịt bồ câu ngon và bổ, bồ câu ra giàng (28 ngày tuổi) trong thịt chứa 17,5% protein; 3% lipit. Bồ câu ta nhỏ con (300-400g/con), mỗi năm đẻ 6-7 lứa, năng suất thịt còn thấp. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều giống bồ câu khác nhau, một số giống được chọn lọc cho năng suất thịt rất cao như chim bồ câu Pháp, chim bồ câu Vua của Mỹ…
Tháng 9 năm 1996, Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương được Bộ trưởng Bộ NN&PTNT giao nghiên cứu và nuôi giữ một dòng bồ câu Pháp được ký hiệu là VN1. Đây là giống chuyên thịt nổi tiếng, mỗi năm một cặp có thể đẻ 8-9 lứa, khối lượng chim ra giàng đạt 530-580/con. Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ sống đạt 94-99%.
Nhằm mục đích giúp cho chăn nuôi bồ câu đạt hiệu quả kinh tế cao, làm phong phú tập đoàn giống, tháng 5/1998 Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương nhận tiếp 2 dòng chim bồ câu pháp mới: TiTan & Mimas:
*Dòng “siêu lợi” Mimas có bộ lông đồng nhất màu trắng, khả năng sản xuất đạt 590g.
*Dòng “siêu nặng” TiTan có bộ lông phong phú đa dạng hơn: trắng, đốm, xám, nâu… khả năng sản xuất: 12-13 chim non/cặp/năm, khối lượng chim nón lúc 28 ngày tuổi đạt 700g
 

Dinh dưỡng và thức ăn nuôi chim



Nuôi 1 cặp bồ câu với khối lượng trưởng thành 700 – 800 gam để sản xuất ra 1 đôi chim con nặng trung bình 550 gam khi 1 tháng tuổi, cần chi phí thức ăn:

- Cho duy trì là 28 kg thức ăn (có mức ME 3.000 – 3.200 kcal/kg, CP là 11 – 12%);
- Cho sản xuất là 1,850 kg thức ăn (có mức ME 3.000 – 3.200 kcal/ kg, CP là 14 – 16%) cho 1 chim bồ câu ra ràng.
Tính ra, cần tiêu tốn 3,360 kg thức ăn/ 1 kg bồ câu con.
Bảng: Khẩu phần của chim sinh sản và chim non
 Thành phần
Chim sinh sản
Ra ràng tới 6 tháng tuổi
 Bột ngô (%)
50
50
Đậu xanh (hoặc đậu các loại) (%)
30
25
Gạo lứt (%)
19
24
Premix khoáng và vitamin (%)
1
1
Nồng độ protein thô (%)
13
12,3
Nồng độ ME (Kcal/kg)
3.165
3.185
Thức ăn bổ sung (chứa vào máng ăn riêng): premix khoáng: 85%; NaCl: 5%; Sỏi: 10%.
          Bổ sung liên tục trong máng cho chim ăn tự do. Tuy nhiên hỗn hợp được trộn nên dùng với một lượng vừa phải. Không nên để thức ăn bổ sung quá nhiều trong một thời gian dài gây biến chất các thành phần có trong hỗn hợp.
          Thông thường chim ăn trực tiếp các loại hạt thực vật: đỗ, ngô, thóc, gạo... và một lượng cần thiết thức ăn hỗn hợp chứa nhiều chất khoáng và vitamin.
          + Đỗ bao gồm: đỗ xanh, đỗ đen, đỗ tương... Riêng đỗ tương có hàm lượng chất béo cao nên cần cho ăn ít hơn và phải được rang trước khi cho chim ăn.
          + Thức ăn bột đường: thóc, ngô, gạo, cao lương... trong đó ngô là thành phần chính của khẩu phần. Yêu cầu của thức ăn phải đảm bảo sạch, chất lượng tốt, không mốc, mọt.
          Chim bồ câu cần một lượng nhất định các hạt sỏi, giúp cho chim trong quá trình tiêu hoá của dạ dày (mề). Kích cỡ của các hạt: dài 0,5-0,8mm, đường kính 0,3-0,4mm. Vì vậy nên cần bổ sung sỏi vào máng dành riêng đựng thức ăn bổ sung cho chim (trộn cùng với muối ăn và premix khoáng).
          Cách phối trộn thức ăn
Sau đây là 2 khẩu phần đang được ứng dụng nuôi chim bồ câu Pháp: 
          Thức ăn cơ bản: hạt đậu đỗ 25-30%, ngô và thóc gạo 70-75%
          Thức ăn bổ sung (chứa vào máng ăn riêng): premix khoáng: 85%; NaCl: 5%; Sỏi: 10%.
Bảng: Khẩu phần chim sinh sản và chim dò với nguyên liệu thông thường
Nguyên liệu
Chim sinh sản
Chim dò
Ngô (%)
50
50
Đỗ xanh (%)
30
25
gạo xay (%)
20
25
Giá trị dinh dưỡng
Năng lượng ME (Kcal/kg)
3165,5
3185,5
Protein (%)
13,08
12,32
ME/P
242,08
258,5
Ca (%)
0,129
0,12
P (%)
0,429
0,23
Bảng: Khẩu phần chim sinh sản và chim dò với nguyên liệu thông thường kết hợp với thức ăn hỗn hợp cho gà 
Nguyên liệu & giá trị dinh dưỡng
Chim sinh sản
Chim dò
Cám viên proconco C24 (%)
50
33
Ngô hạt đỏ (%)
50
67
Giá trị dinh dưỡng
Năng lượng ME (Kcal/kg)
3000
3089
Protein (%)
13,5
11,99
Xơ thô (%)
4,05
3,49
Ca (%)
2,045
1,84
Photpho tiêu hóa (%)
0,40
0,25
Lyzin (%)
0,75
0,52
Methionin (%)
0,35a
0,29
          Cách cho ăn:
- Thời gian: 2 lần trong ngày, buổi sáng lúc 8-9 h, buổi chiều lúc 14-15 h, nên cho ăn vào một thời gian cố định trong ngày.
- Định lượng: thông thường lượng thức ăn bằng 1/10 khối lượng cơ thể.
- Chim dò (2-5 tháng tuổi): 40-50g thức ăn/con/ngày.
- Chim sinh sản: (6 tháng tuổi trở đi)
+ Khi nuôi con: 125-130g thức ăn/đôi/ngày
+Không nuôi con: 90-100g thức ăn/đôi/ngày
- Lượng thức ăn/đôi sinh sản/năm: 45-50kg.

Bỏ hơn 6 tỉ đồng chỉ để mua… chim bồ câu


(VTC News) - Mới đây, một ông trùm trong ngành hàng hải của Trung Quốc đã bỏ ra 328.000 USD, tương đương 6,85 tỉ đồng Việt Nam để mua một con chim bồ câu của Hà Lan.
Thời gian gần đây, người Trung Quốc nổi lên với các thú chơi ngông, săn và sưu tập những thứ đắt nhất thế giới, trong đó gồm cừu đắt nhất thế giới, chó đắt nhất thế giới, rượu đắt nhất thế giới, xe hơi đắt nhất thế giới và mới nhất là chim đắt nhất thế giới.
Bỏ hơn 6 tỉ đồng chỉ để mua… chim bồ câu
Chim bồ câu Dolce Vita giá 328.000 USD

Ban đầu, người ta nghĩ Zhen Yu bỏ ra một đống tiền để mua bồ câu để dùng cho mục đích thi thố vì năm ngoái ông từng tài trợ một cuộc thi chim ở Ôn Châu với giải thưởng 1,1 triệu USD, nhưng ông trùm hàng hải này mua chỉ nhằm mục đích…nhân giống. Đây là loài Dolce Vita (Special Blue), với lông vũ màu xanh tuyệt đẹp ở cổ và đôi mắt màu hồng huyết.
Bỏ hơn 6 tỉ đồng chỉ để mua… chim bồ câu
 Zhen Yu, người ngồi bên trái, ông trùm trong ngành hàng hải ở Trung Quốc

Hồi tháng 1 năm ngoái, một người Trung Quốc cũng đã mua 1 con chim bồ câu Blue Prince với giá 200.000 USD.
Vũ Kiều (Theo extravaganzi)

ẢNH ĐỘNG.


NUÔI RẮN MỐI.


Rắn mối là động vật sống hoang giả, để nuôi loại động vật này, người nuôi phải am hiểu về tập tính sống của chúng- đó là lời tâm sự của anh Dương Tấn Lạc ở ấp Phú Lợi, xã Bình Phú, thành phố Bến Tre.
Anh Lạc cho biết, trước khi đến với mô hình này do 1 lần đi An Giang tình cờ gặp những người bạn cho biết khách nước ngoài hiện nay rất chuộng loài động vật hoang giả này. Thế là từ đó 6 anh em hùn vốn đầu tư thu mua rắn mối từ các nhà vườn để nuôi tại Ba Tri. Đã 3 năm trôi qua, mô hình nuôi hàng độc này đã đem lại kết quả thành công như mong đợi, sản phẩm được bán nhiều nơi. Tiếng lành đồn xa, nhiều người biết và tìm đến để tham quan, học tập kinh nghiệm đồng thời mua giống về nuôi. Thế là một lần nửa các anh em cùng nhau bàn tính để vừa phát triển kinh tế đồng thời thuận tiện cho khách tham quan, du lịch, đặt hàng.
Cũng từ đó anh Lạc đem từ Ba Tri về Bình Phú 1.000 con rắn mối giống, trong đó có 800 con cái và 200 con đực hiện đang trong giai đoạn sinh đẻ. Do có kinh nghiệm nuôi từ trước, nên giờ đây anh không còn bỡ ngỡ. Theo anh, khâu chuẩn bị chuồng cũng hết sức đơn giản, chỉ cần xây gạch xung quanh, sau đó dán gạch men lên phía trong chuồng để trơn, rắn mối không bò lên được. Trong chuồng có thể trồng các loại rau lang, để củi dừa mục, gạch ống để rắn mối chui vào đẻ, đồng thời tạo cảnh tự nhiên, vừa tận dụng củi mục con mối chui vào sẽ làm thức ăn cho rắn mối. Sau đó dùng lưới đậy chuồng lại để tránh không cho gà, bìm bịp,... vào vì rắn mối là thức ăn khoái khẩu của chúng. Hiện, anh xây chuồng có kích thước 49m2. Với diện tích này, anh Lập cho biết có thể nuôi được 2.000 con rắn mối.
Nuôi rắn mối - mô hình mới cho thu nhập cao.
Thức ăn chủ yếu cho rắn mối là con mối, sâu, trùn quế, cá, tép băm nhỏ. Với 1.000 con rắn mối hàng ngày anh tốn 15 ngàn tiền mua thức ăn cho chúng. Anh Lập cho biết, rắn mối bán chủ yếu cho các nhà hàng, quán nhậu với giá 400.000 đồng/kg (30-40 con), bán cho các tỉnh, thành phố mà nơi tiêu thụ mạnh nhất là Vĩnh Long, Cần Thơ. Nếu bán con giống thì 15.000 đồng/con, giao tận nhà đồng thời hướng dẫn kỹ thuật nuôi và chăm sóc.
Anh Lạc cho biết, nuôi rắn mối được xem là mô hình mới ở Bến Tre. Các món ăn được chế biến từ rắn mối như xào lăn, cà ri, nướng,… Rắn mối ngoài vị ngọt, mềm của thịt ra còn có nhiều chất dinh dưỡng không thua gì các loài động vật khác, ngoài ra nhiều người mua rắn mối về dùng làm thuốc trị bệnh.
Theo kinh nghiệm của anh Lạc, rắn mối trung bình đẻ 1 lần từ 10-12 con. Mỗi năm, rắn mối đẻ 2 lần, rộ nhất vào tháng 4 và tháng 10. Từ lúc mới nở đến khi bán được khoảng 9 tháng. Như vậy, nếu chăm sóc tốt 1.000 con trung bình 1 năm thu lợi nhuận từ 90-100 triệu đồng/năm sau khi trừ chi phí. Với 1.000 con rắn mối giống ban đầu, anh Lạc để cho chúng nhân đàn tự nhiên và để tiếp tục làm giống nhân rộng hơn. Hiện nay, để đủ lượng hàng cung cấp, các anh em trong nhóm nuôi rắn mối của anh vẫn trao đổi sản phẩm qua lại nếu có nhiều đơn đặt hàng. Hiện, anh còn nuôi thử nghiệm kỳ nhông, vì theo anh giá kỳ nhông hiện nay cao hơn so với rắn mối. Nếu thành công anh sẽ nhân rộng đàn kỳ nhông và mở rộng hơn nửa với mô hình này trong thời gian tới.
Ngoài việc nuôi rắn mối thì thu nhập chính của gia đình anh từ 4 công đất vườn trồng sơ ri, dừa, kết hợp mua bán vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc...) hàng năm sau khi trừ đi các khoản chi phí anh còn lãi trên 100 triệu đồng./.

KIM TUYỀN